Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đi Vào Pháp Giới Hoa Nghiêm

05 Tháng Tư 202418:24(Xem: 312)
Đi Vào Pháp Giới Hoa Nghiêm

Đi Vào Pháp Giới Hoa Nghiêm

HT. Thích Thái Hòa 

hinh phat 11

NGỎ

Đi vào Pháp giới Hoa nghiêmđi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.

Không có nguyện lớn và không có hạnh sâu là không thể nào có đủ điều kiện để đi vào Pháp giới Hoa nghiêm. Ấy là pháp giới được trang nghiêm bằng năm mươi ba chủng loại bông hoa tuệ giác và trong năm mươi ba chủng loại bông hoa tuệ giác ấy, mỗi loại lại được trang nghiêm bằng vô số bông hoa tuệ giác khác nữa, tạo thành Pháp giới Hoa nghiêm với trùng trùng vô tận bông hoa tuệ giác.

Mỗi bông hoa là mỗi đất trời; mỗi bông hoa là mỗi pháp giới; mỗi pháp giới có mười pháp giới; mỗi mười pháp giới lại có mười pháp giới, có trăm pháp giới, có ngàn pháp giới, có muôn triệu ngàn pháp giới; mỗi muôn triệu ngàn pháp giới lại có vô số vi trần pháp giới và mỗi vô số vi trần pháp giới lại có vô số, vô biên, vô lượng pháp giới. Pháp giới trùng trùng vô tận, Lý SựSự Sự vô ngại viên dung.

Pháp giới rộng lớn vô biên, không có ngằn mé về không gian, không có ngằn mé về thời gian. Pháp giới ấy chính là tự tánh thanh tịnh của tâm và là bản tính bất sinh diệt, thường rỗng lặng nơi vạn hữu.

Tâm bản tính ấy là tâm Phật; tính của bản tâm ấy là tính Phật. Nhập pháp giới tính là nương tín căn thanh tịnhđi vào Phật tâm; nương nơi trú tâm để nuôi lớn tín tâm, nương vào hạnh tâm để từ tâm lớn mạnh, ôm hết chủng tử bất thiện, nhiễm ô để trị liệuchuyển hóa; nương vào hướng tâm để bi tâm cứu độ và phổ nhuận cùng khắp pháp giới chúng sanh, trưởng dưỡng chủng tử bồ đề đốn siêu các địa, kết thành những bông hoa giác ngộ, chứng nhập biển cả Phổ hiền hạnh nguyện. Hạnh và nguyện không còn có lằn mức; Sự và Lý không còn là hai thực thể cá biệt.

Chính Sự là Lý; chính Lý là Sự. Sự và Lý đều có mặt trong nhau tương nhiếp tương dung trùng trùng vô ngại. Không những Lý vô ngạiviên dung với Sự mà Sự cũng vô ngạiviên dung với Sự, nên gọi là Sự Sự vô ngại pháp giới.

Sự Sự vô ngại pháp giớipháp giới tính thường trú của hết thảy ba đời mười phương chư Phật.

Ngay nơi tính của pháp giới ấy, mà chư Phật trong ba đời mười phương thị hiện trăm ngàn ức thân để Đản sanh; thị hiện trăm ngàn ức thân để Thành đạo; thị hiện trăm ngàn ức thân để chuyển vận Pháp luân hóa độ chúng sanhthị hiện trăm ngàn ức thân Niết bàn để làm lợi ích cho hết thảy chúng sanh, trong vô lượng vô biên vi trần biển kiếp không thể nói hết, không thể nghĩ bàn. Nhưng thực tế Pháp thân của Phật rỗng lặng, cùng khắp pháp giới không hề sinh diệt, không hề khứ lai.

Thiện-tài-đồng-tử, vì đã có gieo trồng tín căn thanh tịnh nhiều đời, nhiều kiếp và vô lượng kiếp, nên đã phát hiện được tâm bồ đề và khởi lên tâm ấy qua nguyện và hạnh cầu học, cầu tu Bồ tát đạo.

Hạnh và nguyện của Thiện-tài-đồng-tử cầu học, cầu tu theo Bồ tát đạo rộng lớn như pháp tánh, cứu cánh như hư không, lại được dìu dắt hướng dẫn bởi năm mươi ba thiện tri thức, khiến cho Thiện-tài-đồng-tử nguyện đã lớn thì lại càng lớn hơn; hạnh đã sâu thì lại càng sâu hơn; bi tâm đã bao trùm thì lại trùm khắp cả pháp giới và trí đã chiếu thì tỏa chiếu cùng khắp mười phương cùng tận hư không giới, pháp giới.

Bồ đề tâm thanh tịnh là nhân, Thiện-tài-đồng-tử do tu tập nhân này mà thành tựu quả vị giác ngộ, đi vào pháp giới tính thanh tịnh bình đẳng của hết thảy chư Phật.

Phẩm Nhập Pháp giới của kinh Hoa nghiêm đề cập đến nhập Pháp giới của Thiện-tài-đồng-tử, tôi đã dựa vào bản kinh Hoa nghiêm 80 để dịch, lại có đối chiếu với bản Hoa nghiêm 60, bản dịch của ngài Phật-đà-bạt-đà-la (359-429)[1], dịch vào thời Đông-tấn, hiện có ở Đại chính 9, số ký hiệu 278 và Hoa nghiêm 40, bản dịch của ngài Bát-nhã (734-?)[2] đời Đường, hiện có ở Đại chính 10, số ký hiệu 293.

Bản Hoa nghiêm 80, là truyền bản chính, được các nhà Phật học Hoa nghiêm xem như định bản để làm các bản Sớ, Chú, Thích và đã có những ảnh hưởng nhất định đối với các giới nghiên cứu, học thuật cũng như hành giảẤn Độ, các nước thuộc Bắc Ấn, Tây-vực, Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam…

Truyền bản này do ngài Thực-xoa-nan-đà (652-710)[3], cao Tăng nước Vu-điền (Kustana), thuộc vùng Khotan (Khuất-đan), nằm phía Tây tỉnh Tân Cương, truyền vào Trung Quốc và dịch ra Hán bản vào đời Đường, hiện có ở trong Đại chính 10, số ký hiệu 279.

Trong tác phẩm Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm này, có đem lại được công đức nào, thì đó là nhờ gia trì lực của Tam bảo, công ơn giáo dục của Thầy Tổ, sự hỗ trợ tận tình của các thiện tri thức, sự đồng hành tán trợ của các bằng hữu và trong tác phẩm này nếu có những sự thiếu sót nào, thì đó là của tôi, vì sở học chưa đến, chỗ tu còn vụng, chỗ thấy biết còn bị hạn chế, hẹp hòi.

Nên, cúi xin những bậc cao minh chỉ bày và lượng thứ.

Chùa Phước Duyên-Huế, Hoa Nghiêm Các, mùa nhập thất, Phật lịch 2566 –Tây lịch 2022.
Tỷ-kheo Thích Thái Hòa


GIỚI THIỆU

Đi vào Pháp giới Hoa nghiêmđi vào thế giới của Chánh pháp đích thực, sự lý viên dung. Thế giới ấy được trang nghiêm bằng hoa và quả nở ra và đơm kết từ tâm bồ đề. Tâm ấy lại được phát hiện và phát khởi từ bồ đề hạnh nguyện, qua sự cầu học, cầu tu, cầu chứng, từ các bậc thiện tri thức không biết mệt mỏi. Nhờ vậy mà ngộ nhập pháp tính của tâm và từ đó mà nhãn sinh, trí sinh, minh sinh, giác sinh.

Nhãn sinh, thì tín vị liền sinh. Tín vị sinh thì mười tâm của tín vị như: tín, niệm, tấn, định, tuệ, giới, hồi hướng, hộ pháp, xả và nguyện liền sinh khởi đầy đủ.

Trí sinh, thì không những tín vị đầy đủ mà từ đó các trú vị, các hạnh vị, cũng duyên vào trí sinh mà sinh khởi đầy đủ. Mười trú vị gồm: sơ phát tâm trú, trị địa trú, tu hành trú, sanh quý trú, phương tiện cụ túc trú, chánh tâm trú, bất thoái trú, đồng chơn trú, pháp vương tử trú, quán đỉnh trú, gọi là mười trú vị.

Mười hạnh vị gồm: hoan hỷ hạnh, nhiêu ích hạnh, ly sân hận hạnh, tinh tấn hạnh, ly si loạn hạnh, thiện hiện hạnh, bất trước hạnh, tôn trọng hạnh, thiện pháp hạnh, chân thật hạnh, gọi là mười hạnh vị.

Mười trú vị và mười hạnh vị này, duyên vào trí sinh mà khởi sinh đầy đủ.

Minh sinh, thì không những đầy đủ các tín vị, trú vị, hạnh vị, mà mười hồi hướng vị và mười địa vị, cũng duyên từ minh sinh mà sinh khởi đầy đủ. Mười hồi hướng vị gồm: cứu độ chúng sanh ly chúng sanh tướng hồi hướng, bất hoại hồi hướng, đẳng nhất thiết chư Phật hồi hướng, chí nhất thiết xứ hồi hướng, vô tận công đức tạng hồi hướng, tùy thuận thiện căn hồi hướng, đẳng chí nhất thiết chúng sanh hồi hướng, như tướng hồi hướng, vô trước vô phược giải thoát hồi hướng, pháp giới vô lượng hồi hướng. Mười địa vị gồm: hoan hỷ địa, ly cấu địa, phát quang địa, diệm huệ địa, nan thắng địa, hiện tiền địa, viễn hành địa, bất động địa, thiện huệ địa, pháp vân địa. Mười hồi hướng vị và mười địa vị này duyên vào minh sinh mà sinh khởi đầy đủ.

Giác sinh, thì không những đầy đủ các tín vị, trú vị, hạnh vị, hồi hướng vị, địa vị, mà còn đủ cả đẳng giác vịdiệu giác vị. Đẳng giác vị là hàng Bồ tát Nhất sanh bổ xứ, nghĩa là địa vị Bồ tát còn một đời tu tập Bồ tát hạnh nữa, sau đó mới được bổ xứ làm Phật, nên đẳng giác vịđịa vị giác ngộ đồng đẳng với diệu giác vị về nhân, hạnh và nguyện đang hội đủ để nở thành bông hoa giác ngộ và bông hoa ấy đang kết tụ lại để trở thành nụ từ hoa, nhằm dẫn sanh quả vị diệu giác, tức là quả vị giác ngộ hoàn toàn. Ấy là quả vị Phật, đầy đủ mười đức hiệu, mười trí lực, bốn vô sở úy và mười tám pháp bất cộng. Nên, đẳng giác còn gọi là Bồ tát nhất sanh bổ xứdiệu giác mới gọi là Phật quả, nghĩa là quả vị giác ngộ hoàn toàn.

Nên, đẳng giácdiệu giác duyên từ nơi giác sinh mà khởi sinh đầy đủ mười phẩm tính giác ngộ, mười trí lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng của một bậc Vô thượng giác, bậc Chánh biến giác, bậc Chánh biến tri, bậc Giác ngộ hoàn toàn.

Nên, Pháp giới Hoa nghiêmthế giới của Chánh pháp được trang nghiêm bằng vô số bông hoa tuệ giác và những quả vị giác ngộ hoàn toàn.

Thiện-tài-đồng-tử phát khởi tâm bồ đề, hạnh và nguyện bồ đề, cầu tu học với năm mươi ba[4] thiện tri thức, bằng tâm chí đại bi, vì lợi ích hết thảy chúng sanh, nên đã trở thành một bông hoa tuệ giác trong vô số bông hoa tuệ giác nơi Pháp giới Hoa nghiêm của chư Phật.

Nên, từ nơi rừng Trang-nghiêm-tràng-bà-la[5], chỗ đại tháp miếu phía đông Phước-thành[6], nơi mà chư Phật quá khứ đã từng cư ngụ để giáo hóa chúng sanh và nơi đây cũng là chỗ mà đức Thế Tôn Thích Ca đã từng tu Bồ tát hạnh, xả ly vô lượng sự khó xả ly, thì ngay nơi trú xứ này, Thiện-tài-đồng-tử, đã được Bồ tát Văn-thù-sư-lợi quán sát công hạnh tu tập tích lũy thiện căn nhiều đời đối với Bồ tát hạnh, nên trao cho ý chỉ phát khởi vô thượng bồ đề tâm và nuôi lớn tâm ấy, bằng con đường Bồ tát hạnh rằng:

“Lành thay, lành thay! Này Thiện nam tử, Ngươi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, cầu Bồ tát hạnh. Nếu có chúng sanh nào phát tâm Vô thượng bồ đề, thì ấy là điều rất khó. Huống nữa, đã phát tâm Bồ đề, lại còn cầu thực hiện Bồ tát hạnh nữa, ấy là việc làm khó quá bội phần!”

“Này Thiện nam tử! Nếu Ngươi muốn thành tựu Nhất thiết chủng trí, thì nhất định phải tìm cầu chân thiện tri thức”.

“Này Thiện nam tử! Cầu thiện tri thức thì không có lười biếng, mệt mỏi; nếu thiện tri thức có dạy dỗ điều gì, thì phải hết lòng tùy thuận và không nên thấy những lầm lỗi ở nơi những phương tiện thiện xảo của các bậc thiện tri thức”.[7]

Phụng hành ý chỉ của Bồ tát Văn-thù-sư-lợi, Thiện-tài-đồng-tử lên đường cầu học Bồ tát đạo với tất cả tín căn thanh tịnh, khởi hiện từ tâm bồ đề đã trải qua một trăm mười nước, tham vấn năm mươi ba vị thiện tri thức, với vô số sắc thái của mọi phương tiệnvô số diệu dụng của hết thảy pháp môn, mà Thiện-tài-đồng-tử đã được các thiện tri thức ân cần chia sẻ, mà ở trong phẩm Nhập pháp giới của kinh Hoa nghiêm 60, bản dịch của Phật-đà-bạt-đà-la; Hoa nghiêm 80, bản dịch của Thực-xoa-nan-đà và Hoa nghiêm 40, bản dịch của Bát-nhã, mà chư Tổ đã kết tập, truyền dịch và truyền thừa cho đến chúng ta ngày nay.

Nên, đi vào Pháp giới Hoa nghiêm, ta không thể đi vào bằng tất cả tri thức thường tục, dù tri thức đó được mệnh danh là gì, thì chúng cũng chỉ là những mắc lưới nơi lưới võng của sáu mươi hai lưới võng tà kiến mà thôi, mà ta phải đi vào Pháp giới Hoa nghiêm bằng tất cả tín tâm thanh tịnh. Với tín tâm thanh tịnh qua lời dạy của Phật và Tổ, cũng như các bậc thiện tri thức, nên ta tin rằng, ta có tâm bồ đềtừ tâm ấy, mà phát khởi hạnh nguyện bồ đề. Và ta cũng tin rằng, tất cả chúng sanh cũng đều có tâm ấy và cũng đều có thể phát khởi hạnh nguyện bồ đề trong những điều kiện của họ đang có thể, đồng thời tin rằng, ta hay người và muôn loài chúng sanh, đều đồng một pháp tính bình đẳng và đều có thể chứng nhập biển tính giác ngộ không thể nghĩ bàn của chư Phật.

Thiện-tài-đồng-tử cũng đã từng vô lượng kiếp tu tập, nhưng chứng nhập pháp giới tính không bằng sở đắc, sở kiến, sở tri của chính mình, mà bằng tất cả tín tâm bồ đề, bằng tất cả sự thanh tịnh của thân ngữ ý, và bằng tất cả tâm thành cầu học, cầu chứng, từ sự giáo thọ của các bậc thiện tri thức. Nhờ vậy mà Thiện-tài-đồng-tử đi vào được biển cả Phổ-hiền đại nguyện, thấy rõ trong một lỗ chân lông nơi thân thể của chính mình, lại nhiếp thọ và hàm dung vô lượng, vô biên thế giới không thể nghĩ bàn ở trong đó và vô lượng, vô biên thế giới không thể nghĩ bàn nằm trọn vẹn trong một lỗ chân lông không thừa, không thiếu. Thâu lại, thì hết thảy hằng hà sa thế giới nằm gọn trong một hạt bụi, thả ra thì ngay nơi một hạt bụibiến thể cùng khắp hằng hà sa thế giới.

Nên, lý tínhsự tướng của vạn hữu không hề đối ngại nhau. Không những vậy mà sự tướng với sự tướng cũng không hề đối ngại nhau mà chúng cùng nhau hiện hữu dung thông vô ngại. Chúng dung thông, vì trong một có tất cả; chúng vô ngại, vì trong tất cả có một. Nhờ cái thấy ấy, nhờ cái chứng nghiệm ấy, mà bao nhiêu ngã ái, ngã kiến, ngã si, ngã mạn, vô minh hoặc, trần sa hoặc, hoàn toàn tịch lặng, Thiện-tài-đồng-tử bước vào được cửa ngõ chứng nhập thế giới không thể nghĩ bàn của chư Phật.


[1] Buddhabhadra: Hán phiên âm là Phật-đà-bạt-đà-la, Phật-độ-bạt-đà-la, Phật-đại-bạt-đà và dịch là Giác-hiền, Phật-hiền. Ngài người nước thành Ca-tỳ-la-vệ, dòng dõi Thích-ca, cháu của vua Cam-lộ-phạn. Ngài đến Trung Quốc vào khoảng thời Hậu-tần (408) và dịch ra rất nhiều kinh điển từ Phạn văn, trong đó có bản dịch Hoa nghiêm 60 này.

[2] Prajñā: Hán phiên âm là Bát-nhã, Bát-lạt-nhã. Ngài người nước Ca-tất-thi (Kế-tân), thuộc miền bắc Ấn Độ, đến Trung Quốc vào đời Đường, năm 781. Ngài dịch rất nhiều kinh điển từ Phạn sang Hán, trong đó có bản dịch Hoa nghiêm 40.

[3] Śikṣānanda: Hán phiên âm là Thực-xoa-nan-đà; Thí-khất-xoa-nan-đà và dịch Học-hỷ.

[4] 53 thiện tri thức là theo Hoa nghiêm 80 và 40. Hoa nghiêm 60, chỉ có 52 thiện tri thức.

[5] Phạn: Vicitrasāladhvajayuha. Hoa nghiêm 40, phiên âm: Trang-nghiêm-tràng-bà-la (Hoa nghiêm 4, tr677a, Đại chính 10); Hoa nghiêm 80, phiên âm: Trang-nghiêm-tràng-bà-la (Hoa nghiêm 62, 332a, Đại chính 9). Hoa nghiêm 60, Trang-nghiêm-tràng-bà-la (Hoa nghiêm 45, tr687c, Đại chính 9).

[6] Phạn: Dhanyākara-nagara: Phúc-thành, Phúc-thành-nhân, còn gọi là Phúc-sinh-thành, Giác-thành. Nơi Thiện-tài-đồng-tử tham vấn Bồ tát Văn-thù ở trong rừng Trang-nghiêm-tràng-bà-la (Hoa nghiêm 62, tr331c-332a, bản 80, Đại chính 10; Hoa nghiêm 4, tr 677a, bản 40, Đại chính 10). Hoa nghiêm 60, dịch là Giác-thành (tr678c, Đại chính 9). Giác-thành, còn gọi là thành Già-da (Gayā), thuộc nước Ma-kiệt-đà, Trung-ấn, nơi đức Thích Ca thành đạo. (Nhân minh nhập chính lý luận sớ, quyển thượng).

[7] Hoa nghiêm 62, tr 324a, Đại Chính 10.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33)
Phân biệt phước đức và công đức là cần thiết cho việc học và hành đạo Phật.
(Xem: 80)
Sơ quả hay Tu-đà-hoàn là quả vị Thánh đầu tiên mà người Phật tử có thể chứng đạt ngay hiện đời.
(Xem: 213)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 241)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 250)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 238)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 298)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 434)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 387)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 349)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 432)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 652)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 510)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 521)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 619)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 806)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 877)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 898)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 886)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 767)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 742)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 747)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 849)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 866)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 971)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 751)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 642)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 747)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 855)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 753)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 755)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 870)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 901)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 856)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 907)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 940)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 930)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1128)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 992)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1716)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1105)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1238)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 979)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1248)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1151)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1157)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1317)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1603)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2076)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1136)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1387)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1131)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 977)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1079)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1127)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1553)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1314)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1331)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1047)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant